Hôn nhân và gia đình luôn là vấn đề cốt lõi đáng quan tâm trong xã hội, nó ảnh hưởng đến môi trường sống và giai đoạn phát triển của mỗi đứa trẻ.
Tuy nhiên, không phải cuộc hôn nhân nào cũng hạnh phúc và viên mãn nên không hiếm thấy những vụ việc ly hôn trong xã hội hiện nay. Và với những đứa trẻ không may mắn có một gia đình trọn vẹn thì việc ở với cha hay mẹ cũng là một quyết định khó khăn đối với bậc sinh thành, bởi ai cũng muốn được chăm sóc, yêu thương con cái của mình.
Do vậy, khi tiến hành thủ tục ly hôn, vấn đề được quan tâm hơn cả đó là người trực tiếp nuôi dưỡng con và điều kiện đảm bảo cuộc sống cho con. Bài viết sau đây sẽ khai thác sâu hơn về vấn đề tranh chấp nuôi con sau ly hôn trên khía cạnh pháp lý.
Như thế nào được gọi là con chung?
Mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ không chỉ được thể hiện trong các quy phạm đạo đức, tôn giáo, xã hội,… mà còn được điều chỉnh cụ thể trong pháp luật. Về nguyên tắc, con chung của vợ chồng được xác định thông qua quan hệ huyết thống. Điều này được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.“
Ngoài ra, Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng thừa nhận con được sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Không những vậy, đối với trường hợp nhận nuôi con nuôi, người con vẫn được xem xét như con chung của vợ chồng theo quy định pháp luật về nuôi con nuôi.
Các trường hợp cha mẹ được quyền tranh chấp nuôi con sau ly hôn
Tòa án luôn dựa vào nguyên tắc thỏa thuận của hai vợ chồng để đưa ra phán quyền nuôi con thuộc về ai. Theo đó, sau khi ly hôn, hai bên có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, về quyền và nghĩa vụ của bên cấp dưỡng, về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con.
Nhưng mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy ra chuyện tranh giành nuôi con. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con trong các trường hợp sau đây:
Con chưa thành niên
- Con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Tính đến thời điểm ly hôn mà người con bị mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha mẹ sẽ phải thoả thuận ai là người giám hộ cho người con này và có quyền, nghĩa vụ nuôi con, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục như Luật định.
Ngoài ra, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào các điều kiện tốt nhất cho con để chỉ định người được quyền nuôi con.
Bàn về tranh chấp nuôi con sau ly hôn
Về chủ thể có quyền khởi kiện để giành quyền nuôi con, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì sau khi đã ly hôn, người có quyền khởi kiện để yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn sẽ bao gồm một trong các chủ thể sau:
– Cha, hoặc mẹ đẻ của người con này. Họ có thể là người đang trực tiếp nuôi con hoặc là người không được trực tiếp nuôi con theo nội dung của bản án/quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trước đó, nhưng họ có mong muốn được thay đổi hoặc giành lại quyền trực tiếp nuôi con.
Theo đó, người đang trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc trực tiếp nuôi con. Chuyển quyền nuôi con cho người chồng/vợ cũ – người hiện không nuôi con.
Còn người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, giành lại quyền nuôi khi họ cảm thấy người đang trực tiếp nuôi con không đảm bảo được điều kiện, quyền và lợi ích hợp pháp của con. Trong thời điểm khởi kiện giành quyền nuôi con thì khả năng của họ hoàn toàn đáp ứng được điều kiện để để chăm lo, nuôi dưỡng con phát triển một cách tốt nhất.
– Ngoài cha, mẹ đẻ, thì khi xác định được người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để tiếp tục nuôi con và trong trường hợp cần thiết vì lợi ích của người con này, thì những người thân thích của người con này, hoặc đại diện một số cơ quan chuyên môn về phụ nữ và trẻ em như Hội liên hiệp phụ nữ, hoặc cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hoặc cơ quan quản lý nhà nước về gia đình (ví dụ Ủy ban nhân dân các cấp) có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Thứ hai, về điều kiện để giành lại quyền nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Khi một trong các chủ thể có quyền thực hiện khởi kiện để yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con thì Tòa án cần thực hiện xác minh hồ sơ, chứng cứ, và chỉ giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Cha và mẹ cùng đồng thuận, thống nhất thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con trên cơ sở phù hợp và đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của con.
Cũng như những quan hệ dân sự khác, pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự. Vì vậy, dù đã ly hôn thì cha – mẹ – con vẫn là những quan hệ có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và cha mẹ có quyền thỏa thuận, sắp xếp việc thăm nom, chăm sóc con để phù hợp với lợi ích của con, đảm bảo tốt nhất việc nuôi dưỡng, giáo dục con và không ảnh hưởng đến sự phát triển của con.
Khi hai vợ chồng có sự đồng thuận trong việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì vợ và chồng phải cùng nhau ký vào “văn bản thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, đồng thời làm đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận này. Tòa án sau khi nhận được hồ sơ khởi kiện của hai bên sẽ thực hiện việc xem xét hồ sơ, kiểm tra về điều kiện nuôi dưỡng của cha và mẹ, nếu xét thấy việc thỏa thuận này hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với lợi ích của con thì Tòa sẽ ra quyết định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.
- Trường hợp 2: Có đầy đủ căn cứ chứng minh người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.
Ngoài trường hợp hai cha mẹ đồng thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con thì quyền nuôi con vẫn được thay đổi nếu có đầy đủ chứng cứ cho thấy người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con như trước nữa. Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con vẫn được xét trên các phương diện:
– Về điều kiện kinh tế: Cha/mẹ phải chứng minh thu nhập hàng tháng, có tài sản, nơi ở ổn định… để tạo điều kiện cho con sinh hoạt, học tập, vui chơi…
– Về điều kiện tinh thần, cha/mẹ phải chứng minh được có đủ thời gian để chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con; chứng minh luôn phải đầy đủ tư cách đạo đức và năng lực hành vi dân sự để nuôi dạy con. Và đặc biệt, cha/ mẹ không thuộc trường hợp bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con theo quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thông thường, trên thực tế, việc không đáp ứng điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con trong trường hợp này thường diễn ra dưới những hoàn cảnh như:
Những trường hợp này cho thấy, dù xuất phát từ lỗi vô tình hay cố ý, hay do sự ép buộc của hoàn cảnh thì những trường hợp này đều cho thấy con đang không được chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ, không được thực hiện các quyền lợi cơ bản như được chăm sóc, ăn mặc, học hành… Đây là điều kiện để người cha/mẹ còn lại có thể khởi kiện để giành lại quyền trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con. |
Về thủ tục thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Khi có căn cứ cho rằng bên không trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con nữa thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà vì quyền lợi của con có quyền làm thủ tục yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn gửi đến Toà Án nơi người con đang cư trú. Thủ tục bao gồm:
- Đơn yêu cầu thay đổi quyền nuôi con hoặc đơn khởi kiện yêu cầu thay đổi quyền nuôi con.
- Quyết định, bản án ly hôn đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân/Hộ chiếu còn hạn, sổ hộ khẩu.
- Giấy khai sinh của con.
- Các chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện thay đổi quyền trực tiếp nuôi con (áp dụng trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được hoặc khởi kiện thay đổi quyền nuôi con khi người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để nuôi con).
Về xử lý khi vi phạm các quy định về quyền nuôi con
Theo quy định tại Điều 56, Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình thì:
- Người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con thì phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
- Người nào có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật thì phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
- Người nào có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật thì phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
Bên cạnh đó, Điều 380 Bộ luật hình sự 2015 quy định:
“Khi đã có quyết định của Tòa án yêu cầu cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhưng không thực hiện bản án mặc dù có đủ điều kiện và đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thì có thể bị phạt tối đa 5 năm tù giam.“
Ngoài ra, Điều 186 Bộ luật hình sự 2015 còn quy định:
“Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ khi thực hiện ly hôn
Quyền thăm nom khi không trực tiếp nuôi con
Mặc dù không được trực tiếp nuôi con nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người này cùng với tôn trọng tình cảm cha mẹ con cái được pháp luật bảo vệ, người không nuôi con được quyền thăm nom con cái mà không ai được phép cản trở.
Tuy nhiên, không thể lấy lý do thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi đó, người có trách nhiệm nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.
Cụ thể, Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các trường hợp sau đây sẽ bị Tòa án hạn chế quyền thăm nom con:
“– Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý;
– Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
– Phá tài sản của con;
– Có lối sống đồi trụy;
– Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.“
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Để cho con một quá trình phát triển tốt nhất thì cần sự nuôi nấng của cả cha và mẹ dù không còn sống chung với nhau nữa. Vì vậy, người không trực tiếp nuôi con cũng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh nặng về tiền bạc đối với người nuôi con.
Theo đó, mức cấp dưỡng bao nhiêu sẽ do hai bên thỏa thuận căn cứ vào thu nhập thực tế, khả năng tài chính của người cấp dưỡng cũng như nhu cầu chi tiêu của người con.
Chỉ khi không thể thỏa thuận được, Tòa án mới áp dụng mức cấp dưỡng cho các bên. Thông thường thực tế Toà án thường ấn định mức cấp dưỡng dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng.