Hình sựNovember 25, 2023by CNC License0

Phân biệt Tội cướp giật tài sản và Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Tội cướp giật tài sản và tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản có gì giống và khác nhau?  Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản giúp phân biệt hai tội danh này một cách chính xác, kính mời anh/chị và các bạn cùng tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây của CNClicense nhé:

Về căn cứ pháp lý

Tội cướp giật tài sản: Căn cứ theo Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Căn cứ theo Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Định nghĩa tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản

Tội cướp giật tài sản: là hành vi công khai, nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác và nhanh chóng tẩu thoát để tránh sự phản kháng của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản.

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai

Chủ thể của tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản

Là: chủ thể thường có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định

  • Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

Đối với tội cướp giật tài sản: Căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự, như vậy đối với tội cướp giật tài sản người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự, vì khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là 05 năm tù. Như vậy đối với tội cướp giật tài sản mà người thực hiện là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cần phải chú ý về việc xác định chính xác độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt để xem có thuộc trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.

Tiêu chí phân biệt cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản
Ảnh minh họa

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:

  • Khác với tội cướp giật tài sản, đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chủ thể từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, không phân biệt khoản nào của điều luật, điều này được thể hiện ở việc khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tại một trong các điều luật mà khoản 2 Điều 12 liệt kê ra và không có Điều 172. Như vậy chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội này là người từ đủ 16 tuổi.
  • Ngoài ra nếu trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng thì phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tài các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì mới là chủ thể của tội phạm.

Khách thể của tội phạm

Đối với tội cướp giật tài sản: khách thể của tội cướp giật tài sản là quyền sở hữu. Tuy nhiên hiện nay vẫn tồn tại quan điểm cho rằng khách thể của tội cướp giật tài sản bao gồm cả quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Bởi vì trong tình hình hiện nay nhiều vụ cướp giật tài sản đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của bị hại như cướp giật của người đang điều khiển xe đạp, xe máy làm cho họ bị ngã xe bị thương tích.

Đối tượng tác động là tài sản: tài sản nhỏ gọn hoặc tài sản có thể di chuyển một cách nhanh chóng, dễ dàng.

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân tân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản mà nhà làm luật không quy định thệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt.

Đối tượng tác động là: tài sản

Về mặt khách quan của tội phạm

– Hành vi khách quan

Tội cướp giật tài sản: Điều 171 không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản nhưng căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản thì người phạm tội có hành vi giật tài sản một cách công khai, nhanh chóng:

  • Giật tài sản có thể nói là đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng (ngay tức khắc) và công khai.
  • Công khai: người phạm tội không giữ bí mật hành vi phạm tội của mình, không có ý định che giấu hành vi phạm tội. Người phạm tội nhận thực được người quản lý tài sản và những người khó khả năng biết được hành vi phạm tội ngay khi nó đang xảy ra.
  • Nhanh chóng: nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng lẫn trốn: người phạm tội thường lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản có thể có sẵn hoặc có thể do người phạm tội chủ động tạo ra.
  • Thời điểm tội phạm hoàn thành: khi người phạm tội giật được tài sản ra khỏi sự quản lý của chủ sở hữu tài sản, không phụ thuộc người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.
Phân biệt cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản
Ảnh minh họa

 

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: lợi dụng hoàn cảnh người quản lý tài sản không có điều kiện ngăn cản, hành vi chiếm tài sản công khai

  • Hành vi chiếm đoạt tài sản diễn ra trong hoàn cảnh lợi dụng người quản lý tài sản không có điều kiện ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản ví dụ: A để xe máy trên bờ và xuống suối tắm, chẳng may quên chưa rút chìa khóa (chìa vẫn cắm ở ổ khóa xe máy trên bờ), B đi ngang qua thấy xe của A nên nảy sinh lòng tham, lợi dụng lúc này lên xe và phóng đi mất. A dù biết bị lấy mất xe nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể hô hoán lên nhưng B đã phóng xe đi mất rồi. Ngoài ra, người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, bị tại nạn,…để chiếm đoạt tài sản.
  • Công khai: tính chất công khai trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan, nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản người phạm tội không giữ bí mật hành vi phạm tội của mình, không có ý định che dấu hành vi phạm tội. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó công nhiên đối với mọi người khác. Tuy nhiên, đối với người xung quanh người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút, để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội vẫn công khai trắng trợn.
  • Hành chi chỉ cấu thành tội phạm khi chiếm đoạt tài sản trên 2.000.000 đồng, trường hợp tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tài các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
  • Thời điểm tội phạm hoàn thành: là khi người phạm tội chiếm hữu được tài sản.

Lưu ý:

  • Người phạm tội không dù vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc ủy hiếp tinh thần người quản lý tài sản nhằm làm cho họ tê liệt ý chí hoặc sợ mà phải giao tài sản. Tuy nhiên người phạm tội có thể dùng vũ lực để tẩu thoát, lúc này việc dùng vũ lực sẽ là tình tiết tăng nặng định khung.
  • Thực tiễn có nhiều trường hợp có sự chuyển hóa từ tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản sang cướp tài sản. Ví dụ lúc đầu người phạm tội chỉ có ý định giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng trong quá trình thực hiện hành thì chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chống cự giữ lấy hoặc giằng lại tài sản nên người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản, lúc này hành vi phạm tội không còn là cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản nữa mà hành vi này đã là hành vi cướp tài sản.-

– Hậu quả

Đối với tội cướp giật tài sản: mặc dù điều luật không quy định nhưng về lý luận tội cướp giật tài sản có cấu thành vật chất, do đó chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành vi giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản,…Do đó, người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay giá trị nhỏ thì vẫn là phạm tội.

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.     

Mặt chủ quan của tội phạm

Đối với tội cướp giật tài sản:

  • Lỗi: thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
  • Mục đích: chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi giật tài sản.

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:

  • Lỗi: thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
  • Mục đích: chiếm đoạt tài sản. Cũng giống như tội cướp giật tài sản mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Mức hình phạt

 Đối với tội cướp giật tài sản:

  • Không có quy định xử lý hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội​
  • Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  • Tùy vào tình tiết trong vụ án mà người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt khác nhau. Mức phạt tối đa với tội danh này là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
  • Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:

  • Khung hình phạt nhẹ hơn tội cướp giật tài sản
  • Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với trường hợp chiếm đoạt tài sản từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 172.
  • Tùy vào tính tiết trong vụ án mà người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt khác nhau. Mức phạt tối đa với tội danh này là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Do với tội cướp giật tài sản thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản mức phạt tương đối nhẹ hơn và không có phạt tù chung thân.
  • Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Khách hàng có thể tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan đến tại đây:

THÔNG TIN LIÊN HỆ

Sau khi tham khảo bài viết của CNC LICENSE nếu Quý khách hàng còn vấn đề nào chưa rõ liên quan đến những rủi ro khi mua bán nhà đất bằng hợp đồng ủy quyền thì hãy liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây để được tư vấn chi tiết hơn.

Ngoài ra, nếu khách hàng cần tư vấn về các vấn đề pháp lý khác như xin các loại giấy phép, soạn thảo các loại hợp đồng lao động, dân sự, rà soát hợp đồng, soạn thảo các loại đơn từ, soạn hồ sơ khởi kiện, lập di chúc, khai nhận di sản thừa kế, đăng ký biến động đất đai,… thì cũng đừng ngại liên hệ với chúng tôi để được giải đáp mọi thắc mắc.

CÔNG TY LUẬT TNHH CNC VIỆT NAM 

  • Địa chỉ: 28 Đại lộ Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Tp. Thủ Đức, Hồ Chí Minh, Việt Nam
  • Điện thoại: (84) 28-6276 9900
  • Đường dây nóng: (84) 916-545-618
  • Email: contact@cnccounsel.com

Phụ trách:

  • Luật sư Trần Văn Thăng|Luật sư thành viên
  • Điện thoại: (+84) 909 642 658
  • Email: thang.tran@cnccounsel.com

hoặc

  • Trợ lý Luật sư Nguyễn Thị Hương Giang
  • Điện thoại: (84) 387 959 777
  • Email: giang.nguyen@cnccounsel.com

Website:

https://cnclicense.com/

https://hopdongmau.net/

https://cnccounsel.com/

CNC License

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Website được thiết kế và quản lý bởi Tre Xanh Soft