Trộm cắp tài sản và Công nhiên chiếm đoạt tài sản đều là hai tội phạm cùng xâm hại đến quyền sở hữu tài sản và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên thủ đoạn thực hiện tội phạm lại khác nhau hoàn toàn. Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản giúp phân biệt hai tội danh này một cách chính xác, kính mời anh/chị và các bạn cùng tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây của CNClicense nhé:
Về căn cứ pháp lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Căn cứ theo Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tội trộm cắp tài sản: Căn cứ theo Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Định nghĩa
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai
Tội trộm cắp tài sản: là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác
Chủ thể của tội phạm
Là: chủ thể thường có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định
- Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
- Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chủ thể từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, không phân biệt khoản nào của điều luật, điều này được thể hiện ở việc khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tại một trong các điều luật mà khoản 2 Điều 12 liệt kê ra và không có Điều 172. Như vậy chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội này là người từ đủ 16 tuổi.
- Ngoài ra nếu trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng thì phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tài các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì mới là chủ thể của tội phạm.
Đối với tội trộm cắp tài sản: Căn cứ theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự, như vậy đối với tội trộm cắp tài sản người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, vì khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự chỉ là tội phạm nghiêm trọng ít nghiêm trọn vì có mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm tù và khoản 2 Điều 173 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm tù. Như vậy đối với tội trộm cắp tài sản nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật thì chỉ cần xác định người phạm tội từ đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 của điều luật thì người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp người thực hiện là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cần phải chú ý về việc xác định chính xác độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt để xem có thuộc trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản
Đối với cả hai tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản thì: không xâm phạm đến quan hệ nhân tân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định thệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt.
Đối tượng tác động là: tài sản
Về mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: lợi dụng hoàn cảnh người quản lý tài sản không có điều kiện ngăn cản, hành vi chiếm tài sản công khai
- Hành vi chiếm đoạt tài sản diễn ra trong hoàn cảnh lợi dụng người quản lý tài sản không có điều kiện ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản ví dụ: A để xe máy trên bờ và xuống suối tắm, chẳng may quên chưa rút chìa khóa (chìa vẫn cắm ở ổ khóa xe máy trên bờ), B đi ngang qua thấy xe của A nên nảy sinh lòng tham, lợi dụng lúc này lên xe và phóng đi mất. A dù biết bị lấy mất xe nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể hô hoán lên nhưng B đã phóng xe đi mất rồi. Ngoài ra, người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, bị tại nạn,…để chiếm đoạt tài sản.
- Công khai: tính chất công khai trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan, nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản người phạm tội không giữ bí mật hành vi phạm tội của mình, không có ý định che dấu hành vi phạm tội. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó công nhiên đối với mọi người khác. Tuy nhiên, đối với người xung quanh người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút, để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội vẫn công khai trắng trợn.
- Hành vi chỉ cấu thành tội phạm khi chiếm đoạt tài sản trên 2.000.000 đồng, trường hợp tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tài các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
- Thời điểm tội phạm hoàn thành: là khi người phạm tội chiếm hữu được tài sản.
Lưu ý:
- Người phạm tội không dù vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc ủy hiếp tinh thần người quản lý tài sản nhằm làm cho họ tê liệt ý chí hoặc sợ mà phải giao tài sản. Tuy nhiên người phạm tội có thể dùng vũ lực để tẩu thoát, lúc này việc dùng vũ lực sẽ là tình tiết tăng nặng định khung.
- Thực tiễn có nhiều trường hợp có sự chuyển hóa từ tội công nhiên chiếm đoạt tài sản sang cướp tài sản. Ví dụ lúc đầu người phạm tội chỉ có ý định công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng trong quá trình thực hiện hành thì chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chống cự giữ lấy hoặc giằng lại tài sản nên người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản, lúc này hành vi phạm tội không còn là công nhiên chiếm đoạt tài sản nữa mà hành vi này đã là hành vi cướp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản: phương thức chiếm đoạt là lén lút
- Khác với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản được thực hiện bằng hình thức lén lút (không công khai). Lén lút: đòi hỏi về ý thức của người phạm tội khi thực hiện hành vi trong ý thức người phạm tội mong muốn che giấy hành vi phạm tội của mình, họ sợ người quản lý tài sản phát hiện ra hành vi chiếm đoạt tài sản của hộ.
- Điều cần chú ý lén lút là lén lút đối với chủ tài sản hoặc đang quản lý tài sản và có thể công khai đối với người khác về hành vi.
- Thủ đoạn thực hiện: lợi dụng sơ sở, mấy cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khach quan khác như: chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tái ản để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài dản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết.
- Hành vi chi chỉ cấu thành tội phạm khi chiếm đoạt tài sản trên 2.000.000 đồng, trường hợp tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tài các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
- Thời điểm tội phạm hoàn thành: là khi người phạm tội chiếm hữu được tài sản
– Hậu quả
Đối với cả hai tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản hậu quả: là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Mặt chủ quan của tội phạm
Đối với cả hai tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản thì:
- Lỗi: thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
- Mục đích: chiếm đoạt tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Mức hình phạt
Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
- Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với trường hợp chiếm đoạt tài sản từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 172.
- Tùy vào tính tiết trong vụ án mà người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt khác nhau. Mức phạt tối đa với tội danh này là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Không có phạt tù chung thân.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Đối với tội trộm cắp tài sản:
- Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với trường hợp chiếm đoạt tài sản từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 173.
- Tùy vào tính tiết trong vụ án mà người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt khác nhau. Mức phạt tối đa với tội danh này là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Cũng giống như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì tội trộm cắp tài sản cũng không có phạt tù chung thân.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền thì tội trộm cắp tài sản quy định khung tiền phạt nhẹ hơn một nửa (1/2) so với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Khách hàng có thể tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan đến tại đây:
>>> Xem thêm: Phân biệt Tội cướp giật tài sản và Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
>>> Xem thêm: Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Sau khi tham khảo bài viết của CNC LICENSE nếu Quý khách hàng còn vấn đề nào chưa rõ thì hãy liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây để được tư vấn chi tiết hơn. Ngoài ra, nếu khách hàng cần tư vấn về các vấn đề pháp lý khác như xin các loại giấy phép, soạn thảo các loại hợp đồng lao động, dân sự, rà soát hợp đồng, soạn thảo các loại đơn từ, soạn hồ sơ khởi kiện, lập di chúc, khai nhận di sản thừa kế, đăng ký biến động đất đai,… thì cũng đừng ngại liên hệ với chúng tôi để được giải đáp mọi thắc mắc.
CÔNG TY LUẬT TNHH CNC VIỆT NAM
- Địa chỉ: 28 Đại lộ Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Tp. Thủ Đức, Hồ Chí Minh, Việt Nam
- Điện thoại: (84) 28-6276 9900
- Đường dây nóng: (84) 916-545-618
- Email: contact@cnccounsel.com
Phụ trách:
- Luật sư Trần Văn Thăng|Luật sư thành viên
- Điện thoại: (+84) 909 642 658
- Email: thang.tran@cnccounsel.com
hoặc
- Trợ lý Luật sư Nguyễn Thị Hương Giang
- Điện thoại: (84) 387 959 777
- Email: giang.nguyen@cnccounsel.com
Website: