Trong thực tế xã hội, có thể vì lý do chủ quan hoặc khách quan nào đó khiến cho một cá nhân không có tin tức trong một thời gian dài. Trong khi đó các quan hệ dân sự liên quan đến người này đã đến lúc cần phải giải quyết như: hợp đồng đến hạn thanh lý hoặc người vợ, người chồng của người không có tin tức muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân,… Chính vì vậy, việc tuyên bố mất tích là một chế định đặc biệt của pháp luật dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như những chủ thể có liên quan khác.
Khi nào một người bị tuyên bố mất tích
Có thể hiểu mất tích là tình trạng của một cá nhân vắng mặt liên tục trong một thời gian dài mà không rõ họ còn sống hay đã chết do không có tin tức gì liên quan đến cá nhân đó. Bên cạnh đó, cá nhân chỉ được coi là mất tích khi có quyết định tuyên bố mất tích do Tòa án đưa ra theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan khi có đủ những điều kiện sau:
Thứ nhất, điều kiện về mặt thời gian, cá nhân biệt tích hai năm liền trở lên và không có bất kỳ tin tức nào về việc người đó còn sống hay đã chết. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó. Việc xác định thời hạn này được tính trên cơ sở người có quyền, lợi ích liên quan hoặc những người thân thích của người biệt tích nhớ rõ và có bằng chứng chứng minh đúng ngày tháng năm có tin tức của người biệt tích. Khi không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức. Nếu không xác định được tháng thì sẽ tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Ngoài ra, thời hạn hai năm này phải có tính liên tục, không bị ngắt quãng, gián đoạn. Có nghĩa là nếu một người vắng mặt tại nơi cư trú khoảng một năm sau đó có tin tức rằng người đó vẫn sống tại một nơi khác rồi sau đó lại biệt tích một năm nữa thì không thể tính cộng hai khoảng thời gian đó lại thành hai năm.
Thứ hai, về mặt thủ tục, việc tuyên bố cá nhân mất tích phải thông báo tìm kiếm công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định, việc tìm kiếm thông tin cá nhân đang được yêu cầu tuyên bố mất tích này phải được đăng trên các kênh thông tin quốc gia trong ba số liên tiếp. Việc thông báo tìm kiếm này bảo đảm cho việc giải quyết việc dân sự một cách khách quan, công khai và ngay thẳng. Quy trình tìm kiếm thông tin cũng giúp chính cá nhân đang được yêu cầu tuyên bố mất tích có điều kiện nắm bắt được nhu cầu của các chủ thể có quyền, lợi ích liên quan tìm kiếm mình. Qua đó vừa bảo đảm quyền lợi chính đáng của người bị tuyên bố mất tích vừa bảo đảm trật tự xã hội và là cơ sở để Tòa án giải quyết những quan hệ dân sự khác.
Thứ ba, có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Sau khi đáp ứng được thời gian biệt tích theo quy định của pháp luật và có bằng chứng chứng minh thời gian biệt tích này thì người có quyền và lợi ích liên quan (có thể là những chủ thể có liên quan đến các lợi ích vật chất hoặc liên quan đến nhân thân) có đơn yêu cầu gửi đến Toà án có thẩm quyền để yêu cầu tuyên bố cá nhân đó bị mất tích. Trên cơ sở đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan này, Toà án sẽ xem xét và ra tuyên bố phù hợp.
Như vậy, chỉ khi thoả mãn các điều kiện nêu trên, Toà án xem xét và ra quyết định tuyên bố cá nhân có mất tích hay không. Trường hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân mất tích thì lúc này cá nhân mới chính thức trở thành người bị tuyên bố mất tích và dẫn đến một số hậu quả pháp lý nhất định về tài sản và nhân thân.
Hậu quả pháp lý khi tuyên bố mất tích
Đối với quan hệ hôn nhân, khi một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích thì hôn nhân không chấm dứt. Nếu người vợ hoặc người chồng của người bị tuyên bố mất tích muốn ly hôn thì phải làm thủ tục ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình”. Ngoài ra, khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Có thể thấy rằng các quy định này là phù hợp vì người bị tuyên bố mất tích không có nghĩa là họ chết, họ vẫn tồn tại và có tư cách chủ thể nên việc tuyên bố cá nhân mất tích chỉ nhằm giải quyết các quan hệ dân sự liên quan đến họ cần giải quyết. Bên cạnh đó, quy định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ hoặc chồng người mất tích. Do đó, người vợ hoặc người chồng của người bị tuyên bố mất tích muốn chấm dứt tình trạng hôn nhân vì lý do người chồng hoặc vợ của họ mất tích và nhiều quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì họ phải làm thủ tục ly hôn với người bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật.
Tài sản của cá nhân mất tích được giao cho cá nhân, tổ chức quản lý theo quy định của pháp luật. Nếu trước khi vắng mặt mà người này đã uỷ quyền cho một chủ thể quản lý thì chủ thể được uỷ quyền tiếp tục quản lý. Ngoài ra, người này có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 66 và Điều 67 Bộ luật Dân sự 2015.
Đối với tài sản chung trong khối tài sản chung với các đồng sở hữu khác thì các đồng sở hữu tiếp tục quản lý.
Nếu tài sản chung của vợ, chồng thì người vợ hoặc người chồng tiếp tục quản lý. Trường hợp người bị tuyên bố mất tích có vợ hoặc chồng nhưng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì tài sản sẽ do con thành niên hoặc cha, mẹ của người này quản lý. Tương tự đối với trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản cũng sẽ được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích quản lý.
Trong trường hợp không còn ai trong số những người trên thì Toà án sẽ chỉ định một trong số những người thân thích như anh chị em ruột, ông bà nội, ngoại hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột quản lý. Nếu không có người thân thích thì Tòa án sẽ chỉ định một chủ thể khác quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích.
Người quản lý tài sản của người vắng mặt phải bảo quản tài sản như chính tài sản của mình, nếu làm mất mát hư hỏng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản có nguy cơ bị hư hỏng thì phải áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại, thậm chí có thể bán tài sản trong trường hợp “tài sản đó là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng”. Khi người vắng mặt trở về thì người quản lý tài sản phải giao lại tài sản, kể cả hoa lợi và lợi tức. Tuy nhiên, người này cũng có quyền yêu cầu thanh toán những chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản.
Trường hợp hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích
Huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích là để đảm bảo quyền, lợi ích về tài sản, nhân thân và các quan hệ pháp luật của cá nhân mất tích và của chủ thể có liên quan khác.
Khi người bị tuyên bố mất tích quay trở về hoặc có tin tức xác thực là họ còn sống thì theo yêu cầu của người này hoặc của những người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố cá nhân mất tích.
Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản từ người quản lý sau khi trừ đi chi phí quản lý. Trong trường hợp người quản lý tài sản làm hư hỏng, gây thiệt hại đến tài sản của người bị tuyên bố mất tích thì người này có quyền yêu cầu người quản lý tài sản phải bồi thường thiệt hại cho mình.
Về quan hệ hôn nhân, nếu chưa ly hôn thì quan hệ hôn nhân vẫn tiếp tục. Trường hợp người vợ hoặc người chồng của người bị tuyên bố mất tích đã ly hôn bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân giữa hai người đã chấm dứt. Nếu muốn sống chung lại với nhau thì phải làm thủ tục kết hôn lại theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố mất tích
Bước 1: Nộp đơn yêu cầu
Người có quyền, lợi ích liên quan nộp đơn yêu cầu và các chứng cứ kèm theo cho Toà án có thẩm quyền.
Thẩm quyền giải quyết thủ tục yêu cầu tuyên bố mất tích căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là Toà án nơi mà người bị yêu cầu tuyên bố mất tích có nơi cư trú cuối cùng trước khi mất liên lạc.
Bước 2: Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
Ở bước này, Toà án sẽ thực hiện việc ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu.
Thời hạn thông báo là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu.
Bước 3: Giải quyết thủ tục yêu cầu tuyên bố mất tích
Sau khi hết thời hạn thông báo, Toà án sẽ mở phiên toà xét đơn yêu cầu trong thời gian 10 ngày. Nếu chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án sẽ ra quyết định tuyên bố người này mất tích.
Nếu trong thời gian thông báo, người bị yêu cầu trở về và yêu cầu Toà án đình chỉ xét đơn thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
Khách hàng có thể tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan đến tại đây:
THÔNG TIN LIÊN HỆ
Sau khi tham khảo bài viết của CNC LICENSE nếu Quý khách hàng còn vấn đề nào chưa rõ thì hãy liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây để được tư vấn chi tiết hơn. Ngoài ra, nếu khách hàng cần tư vấn về các vấn đề pháp lý khác như xin các loại giấy phép, soạn thảo các loại hợp đồng lao động, dân sự, rà soát hợp đồng, soạn thảo các loại đơn từ, soạn hồ sơ khởi kiện, lập di chúc, khai nhận di sản thừa kế, đăng ký biến động đất đai, tham gia giải quyết khiếu nại kiên quan đến bồi thường thu hồi đất,… thì cũng đừng ngại liên hệ với chúng tôi để được giải đáp mọi thắc mắc.
CÔNG TY LUẬT TNHH CNC VIỆT NAM
- Địa chỉ: 28 Đại lộ Mai Chí Thọ, Phường An Phú, Tp. Thủ Đức, Hồ Chí Minh, Việt Nam
- Điện thoại: (84) 28-6276 9900
- Đường dây nóng: (84) 916-545-618
- Email: contact@cnccounsel.com
Phụ trách:
- Luật sư Trần Văn Thăng|Luật sư thành viên
- Điện thoại: (+84) 909 642 658
- Email: thang.tran@cnccounsel.com
hoặc
- Trợ lý Luật sư Nguyễn Thị Hương Giang
- Điện thoại: (84) 387 959 777
- Email: giang.nguyen@cnccounsel.com
Cộng sự:
- Bùi Thị Như
- Nguyễn Thị Ngọc Trang
Website: